Skip to content
  1. Home
  2. »
  3. Hoạt động
  4. »
  5. Chuyển đổi số: Giải pháp tối ưu để gìn giữ,…

Chuyển đổi số: Giải pháp tối ưu để gìn giữ, phát huy, nâng tầm các giá trị di sản

 


Tổng thư ký LHQ Guterres thăm và ghi lưu niệm tại Hoàng Thành Thăng Long-Di sản văn hóa thế giới trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam mới đây – Ảnh: VGP/DA

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) đã phê duyệt Quyết định 3611/QĐ-BVHTTDL về chương trình chuyển đổi số của ngành đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, trong đó đặt ra mục tiêu phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số: “Đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Bộ VHTTDL và hướng tới nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu đổi mới, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội”.

Chương trình chuyển đổi số cũng hướng tới xây dựng xã hội số: “Xây dựng, phát triển văn hóa số, góp phần hình thành thế hệ công dân số cho tương lai”. Đồng thời, chương trình đề ra mục tiêu thực hiện chuyển đổi số cho các lĩnh vực thuộc công nghiệp văn hóa, hướng đến phát triển kinh tế số.

Đây cũng là 1 trong 6 nhiệm vụ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra cho ngành VHTTDL tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc diễn ra vào cuối tháng 11/2021 là xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh.

Hướng đi đúng đắn, hiệu quả góp phần bảo tồn di sản, mang đến hình thức du lịch mới

Thực hiện Chương trình chuyển đổi số của ngành VHTTDL cũng như để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ của Tổng Bí thư giao tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, từng lĩnh vực của ngành VHTTDL đã tích cực thực hiện công tác chuyển đổi số trong đó có lĩnh vực văn hóa, di sản nhằm làm tốt công tác bảo tồn di sản, vừa đem lại những thay đổi tích cực trong việc khai thác, quảng bá văn hóa, di sản Việt Nam với thế giới.

Trong lĩnh vực di sản, ngày 2/12/2021, Chương trình số hóa Di sản văn hóa Việt Nam giai đoạn 2021-2030 đã được phê duyệt theo Quyết định số 2026/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình đặt mục tiêu xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa trên nền tảng công nghệ số thống nhất, phục vụ công tác lưu trữ, quản lý, nghiên cứu, bảo tồn, khai thác, quảng bá di sản, thúc đẩy phát triển du lịch bền vững; bảo đảm tích hợp được vào khung kiến trúc Chính phủ điện tử và Hệ tri thức Việt số hóa; đẩy mạnh chuyển đổi số, thực hiện liên thông dữ liệu số quốc gia về di sản văn hóa, bảo đảm đáp ứng hiệu quả dịch vụ cho xã hội, cộng đồng ở mọi lúc, mọi nơi.

Trong đó, mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021-2030: 100% các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu được UNESCO ghi danh; 100% các di tích quốc gia đặc biệt được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; 100% các bảo vật quốc gia, các di sản trong Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được số hóa và ứng dụng trên các nền tảng số; ưu tiên số hóa theo nhu cầu sử dụng của xã hội các di tích quốc gia và các hiện vật, nhóm hiện vật tại các bảo tàng, ban quản lý di tích; 100% người làm công tác chuyên môn trong ngành di sản văn hóa được đào tạo, đào tạo lại, cập nhật các kiến thức, kỹ năng chuyển đổi số.

Hiện nay, Việt Nam có hơn 4.000 di tích được xếp hạng quốc gia và 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Cùng với đó là gần 300 di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia, bao gồm các lễ hội truyền thống, di sản nghệ thuật trình diễn dân gian, tập quán xã hội và tín ngưỡng, nghề thủ công truyền thống, tri thức dân gian, tiếng nói, chữ viết và ngữ văn dân gian.

Theo bà Huỳnh Phương Lan, Viện Bảo tồn Di tích-Bộ VHTTDL, để quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống di sản văn hóa này đòi hỏi cần phải có sự nỗ lực, cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý, tham mưu thực hiện công tác bảo tồn di tích cũng như cần có những công cụ, phương thức quản lý khoa học, hiện đại để vừa nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn, vừa khai thác và phát huy hiệu quả các giá trị của văn hóa, di sản, đẩy mạnh phát triển du lịch, dịch vụ, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Do đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số là công cụ hữu hiệu nhất để duy trì, gìn giữ, phát huy và nâng tầm các giá trị di sản, văn hóa truyền thống.

Bà Huỳnh Phương Lan cho biết trước tác động của dịch bệnh COVID-19, hiện nay tại nhiều di tích, đặc biệt là các di tích lớn đã ứng dụng tốt công nghệ kỹ thuật số trong hoạt động thuyết minh giới thiệu, quảng bá giá trị di sản đem lại nhiều trải nghiệm mới mẻ cho người tham quan. Việc ứng dụng công nghệ trong việc giới thiệu di tích, tái hiện các sự kiện lịch sử là hướng đi đúng đắn, hiệu quả và giúp bảo tồn, phát huy giá trị di sản, cũng như mang đến các hình thức du lịch mới.

Dẫn chứng cho việc triển khai này, bà Huỳnh Phương Lan thông tin, hiện nay tại nhiều địa phương, đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản, tiêu biểu như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai app hướng dẫn tham quan “Di tích Huế”, ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR 3D trong hoạt động tham quan tại Hoàng Thành Thăng Long…, số hóa các tài liệu Hán Nôm các văn bản, tư liệu Hán Nôm sưu tầm tại các di tích. Đây là thành tựu bước đầu, tạo cơ sở cho việc chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích.

Tại Hội nghị Chuyển đổi số ngành VHTTDL được tổ chức mới đây, TS. Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở VHTTDL Thừa Thiên Huế chia sẻ, Huế là vùng đất có bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa và đang lưu giữ một kho tàng di sản văn hóa phong phú, đa dạng cả về văn hóa vật thể và phi vật thể. Trên địa bàn tỉnh hiện có gần 1.000 di tích đã được kiểm kê, trong đó có 03 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 89 di tích cấp quốc gia, 90 di tích cấp tỉnh; 03 di sản phi vật thể cấp quốc gia; 10 nhóm cổ vật với 35 hiện vật được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đặc biệt, Thừa Thiên Huế có 07 di sản được UNESCO vinh danh thuộc 3 loại hình khác nhau (Di sản vật thể: Quần thể di tích Cố đô Huế; Di sản phi vật thể: Nhã nhạc – Âm nhạc Cung đình Việt Nam, Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ, Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ; Di sản tư liệu: Mộc Bản, Châu Bản triều Nguyễn và Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế).

Do đó, hệ thống các di tích, hiện vật, tư liệu, các lễ hội tiêu biểu, có giá trị trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đã được kiểm kê, chuẩn hóa thông tin, lý lịch khoa học kèm bản chụp các hình ảnh về di tích, hiện vật, tư liệu, lễ hội. Đây là tiền đề thuận lợi để đẩy mạnh việc thực hiện số hóa, chuyển đổi số các di sản văn hóa trong thời gian tới. Một số đơn vị đã bước đầu triển khai thực hiện các giải pháp chuyển đổi số, áp dụng công nghệ số hóa 3D trong việc quản lý, khai thác, quảng bá và phát huy giá trị di sản, tiêu biểu như Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai app hướng dẫn tham quan “Di tích Huế”, ứng dụng công nghệ trải nghiệm thực tế ảo VR3D, quét mã QR Code để xem thông tin hiện vật, xem hiện vật bằng tương tác – Model 3D và xoay 360 độ; phục dựng Hoàng Thành bằng công nghệ số, Scan số hóa 3D lăng vua Tự Đức công bố trên nền tảng Google Arts & Cultural/Open Heritage… Đặc biệt, Tuần lễ Festival Thừa Thiên Huế năm 2022 đã ứng dụng công nghệ trình chiếu 3D Mapping hiện đại để tổ chức lễ khai màn độc đáo và đầy ấn tượng

Bà Lê Thị Thu Hiền-Cục trưởng Cục Di sản văn hóa cho biết, trong thời gian qua, nhận thức của các cấp về việc số hóa, chuyển đổi số xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia đã được nâng cao, nhờ vậy, việc chuyển đổi số trong công tác bảo vệ, phát huy di sản đã đạt nhiều kết quả. Bước đầu tạo được kết nối liên thông thành hệ thống quản lý chung trên phạm vi rộng. Đẩy mạnh việc số hóa, chuyển đổi số, hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa, tiến tới cập nhật nền tảng bản đồ số. Nâng cao năng lực cán bộ trong việc ứng dụng khoa học và công nghệ.

Vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức

Bên cạnh những thuận lợi và kết quả bước đầu đã đạt được, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa bảo tồn di tích cũng gặp phải nhiều khó khăn, thách thức bao gồm xây dựng các nội dung cần thực hiện số hóa, xác định các tiêu chí thực hiện, các di tích cần ưu tiên thực hiện chuyển đổi số; việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa; việc cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để đáp ứng yêu cầu lưu trữ, quản lý, tích hợp các nội dung số hóa, chuyển đổi số.

Theo bà Huỳnh Phương Lan, Viện Bảo tồn Di tích, việc triển khai chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích còn khá mới mẻ, chưa có đội ngũ nguồn nhân lực thành thạo công nghệ thông tin để đáp ứng công việc… Trong đó, thách thức lớn nhất là vấn đề kinh phí thực hiện các nội dung số hóa, chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo tồn di tích.

Ở góc độ địa phương, ông Phan Thanh Hải, Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh Thừa Thiên Huế cũng cho biết, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa di sản ở Thừa Thiên Huế gặp phải nhiều khó khăn, thách thức bao gồm: Xây dựng, xác định các nội dung văn hóa, di sản ưu tiên thực hiện chuyển đổi số; việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa; việc cải tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để đáp ứng yêu cầu lưu trữ, quản lý, tích hợp các nội dung số hóa, chuyển đổi số; các doanh nghiệp công nghệ có nền tảng số phục vụ chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản trên địa bàn tỉnh chưa phát triển.

“Khó khăn nhất vẫn là vấn đề kinh phí thực hiện các nội dung số hóa, chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản”, ông Phan Thanh Hải chia sẻ đồng quan điểm với bà Phương Lan.

Theo bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, di sản vẫn còn nhiều khó khăn như xây dựng kho dữ liệu chưa thường xuyên, liên tục và bền vững; chưa tính đến việc liên kết dữ liệu để cùng khai thác đáp ứng được nhu cầu phát triển. Phần mềm dùng chung có hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế. Cơ sở dữ liệu được xây dựng và vận hành độc lập với ứng dụng công nghệ khác nhau, quản lý và khai thác riêng, chưa có liên kết và phân cấp quản lý, khai thác.

“Nguyên nhân của vấn đề trên là do nguồn nhân lực còn mỏng chưa đáp ứng yêu cầu. Nguồn lực đầu tư quá ít, không đảm bảo sự đồng bộ. Mặt khác, trách nhiệm và sự tham gia của các tổ chức, cá nhân liên quan chưa chặt chẽ, thiếu quy chế liên kết triển khai hiệu quả”, bà Lê Thị Thu Hiền nhấn mạnh.


Di tích lịch sử Văn Miếu-Quốc Tử Giám, nơi diễn ra rất nhiều các hoạt động văn hóa truyền thống đa dạng và đặc sắc – Ảnh: VGP/DA

Để di sản đến gần hơn với du khách và người dân

Số hóa tiến tới chuyển đổi số di sản là xu hướng tất yếu và là một trong những giải pháp nhằm tối ưu lưu trữ, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản hiện nay và hướng tới phát triển du lịch thông minh, đưa di sản đến gần hơn với du khách và người dân.

Để làm được điều này, theo bà Huỳnh Phương Lan, Viện Bảo tồn Di tích, quá trình thực hiện số hóa di tích, di sản cần được triển khai một cách toàn diện đối với các đơn vị trong ngành, đặc biệt là các đơn vị trong khối di sản văn hóa của mỗi địa phương. Từ việc khảo sát, tập hợp, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ số hóa, đến việc xây dựng kho dữ liệu số dùng chung cần được thực hiện bài bản, theo quy chuẩn phù hợp. Các đơn vị đã số hóa dữ liệu, có cơ sở dữ liệu riêng cần sớm thực hiện tích hợp, chia sẻ dữ liệu với các bên liên quan.

Trước mắt để triển khai việc số hóa trong lĩnh vực bảo tồn di tích cần thực hiện việc xây dựng hệ thống các tiêu chí lựa chọn giải pháp số hóa với các di tích và hệ thống yêu cầu về kỹ thuật đối với từng loại hình dữ liệu.

Đồng thời. cần giải bài toán đầu tư kinh phí cho ứng dụng để công nghệ phát triển, cập nhật liên tục. Nhà nước cần đầu tư các nền tảng công nghệ lõi mang tính xương sống, cơ bản để doanh nghiệp, xã hội, địa phương có thể dựa trên đó hoàn thiện, đồng bộ và phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ; ban hành chính sách đa dạng hóa nguồn vốn, tạo điều kiện xã hội hóa nguồn tài chính cho phát triển công nghệ… Song song với đó, đầu tư phát triển nguồn lực con người cũng là yếu tố then chốt.

Có thể nói, việc ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào hoạt động của văn hóa di sản là hết sức cần thiết, đây sẽ là cầu nối để đưa các giá trị văn hóa, di sản đến gần hơn với người dân, du khách; đóng góp tích cực vào trong quá trình gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản, giá trị văn hóa, góp phần đưa văn hóa, di sản trở thành những sản phẩm của du lịch, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. 

Để đất nước thực sự phát triển bền vững trên nền tảng bảo tồn, phát huy giá trị di sản và bản sắc văn hóa theo tinh thần Nghị quyết số 54-NQ/TW ngày 10/12/2019 của Bộ Chính trị và thực hiện theo những yêu cầu, nhiệm vụ mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt ra tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021.

Diệp Anh

Báo điện tử Chính phủ – baochinhphu.vn